Chủ Nhật, 28 tháng 10, 2018

Chiêm ngưỡng bảo vật quốc gia của chùa Sùng Khánh

Hà Giang, mảnh đất địa đầu Tổ quốc vốn nổi tiếng với đá. Thế nhưng, chỉ có bia đá Sùng Khánh được coi là bảo vật quý, và là bảo vật quốc gia.

Hà Giang, mảnh đất địa đầu Tổ quốc vốn nổi tiếng với đá. Núi đá, công viên đá đến cả những thung lũng đá cũng bao la và đẹp. Thế nhưng, chỉ có một tảng đá được coi là bảo vật quý, mà là bảo vật quốc gia. 

Ấy là bia đá Sùng Khánh. Một bia đá nói tới công trạng của những thủ lĩnh mộ đạo đất phên dậu này. Bia đá ấy, dù đã mòn, nhiều nét chữ đã không còn soi tỏ, nhưng khi bảo vật lên tiếng thì lớp hậu sinh cũng rõ ràng hơn về một vùng đất xa xôi của hơn 600 năm trước.


Núi Nùng thuộc xã Đạo Đức của huyện Vị Xuyên. Ngọn núi này nguyên ẩn chứa không biết bao nhiêu những bí ẩn của Hà Giang. Núi nhỏ nhưng cao, phải qua đến gần 100 bậc thang mới lên được đến lưng chừng để chạm chân tới cổng chùa Sùng Khánh.

Cụ Nguyễn Chí Thái thuộc bậc cao niên nhất bản Nùng bảo rằng, trước ngọn núi là cấm địa của các tù trưởng. Dân thường xâm phạm đến là coi như phạm tội. Nhưng đó là chuyện của ngày xưa, nay thì đã khác. Du khách tour Hà Giang được khám phá tất cả ngóc ngách của ngọn núi. Thậm chí, có người còn mang máy lên dò tìm kho báu nữa.

Theo cụ Thái, núi Nùng trước hoang sơ. Bao nhiêu biến thiên của lịch sử và thời gian đã khiến ngọn núi rậm rịt cỏ cây hơn. Chùa vẫn còn đó nhưng do hoang vắng nên thú dữ còn về sinh sống, kiếm ăn. Tiếng hổ gầm còn vang cả bản làng vào ban đêm.

“Tôi nghe các cụ kể, ngọn núi là một trong những huyệt đạo long mạch của nước Việt ta, mà trước đây Cao Biền đã ghi lại và trình báo lên triều đình nhà Đường. Thế rồi, tướng Cao Biền cũng đã yểm huyệt đạo để chặn sinh khí tốt của ngọn núi”, cụ Thái cho hay.

Chùa Sùng Khánh cũng được xây dựng trên ngọn núi này vào khoảng những năm 1365. Chùa tuy không lớn nhưng trên ngọn núi cao nên bao lần giặc phương Bắc sang xâm lược mà không phá hủy nổi.

Lưng chừng núi, cổng chùa hiện ra không uẩn tịch mịch như chùa dưới xuôi. Nó chỉ giản đơn là hai cái cột lớn ghi câu đối, tạm dịch: Sơn thủy thanh cao xuân bất tận/Thần tiên lạc thú cảnh trường sinh.


Có phải chăng, xưa đây là chốn cảnh tiên với những kỳ hoa dị thảo và mây khói giăng giăng ôm ấp núi suốt tứ mùa bất kể tiết trời mưa nắng?

Chạm vào văn bia

Giữa cảnh đẹp của núi Nùng, bảo vật quốc gia là văn bia Sùng Khánh được bao bọc. Bia không để trong chùa, cũng không đặt phần Tam bảo mà được thiết kế phía bên tả.

Chùa không sư, có một người trông coi. Anh không nhận mình là ông từ, ông vãi mà chỉ đơn giản là người coi sóc. Anh cũng không nói tên nói họ nhưng rành rẽ về tấm bia này hơn bất cứ ai.

Khách đến, anh đưa ra xem văn bia. Văn bia bị sờ nhiều đến độ mòn chữ. Người ta phải làm tủ kính, đặt văn bia vào trong nên những chữ nghĩa càng khó đọc. Nể khách, anh mới lấy khóa mở tủ, chỉ tay vào từng dòng mà đọc.

“... Chùa Sùng Khánh ở hương Hoằng Nông, giang Thông, trường Phí Linh là do người chú của vị Phụ đạo họ Nguyễn tên là Ẩn, tự là Văn Giác sáng lập. Ông không thích chăm lo sản nghiệp riêng mà lại ham cứu giúp người khác lúc khó khăn, lòng thì hâm mộ đạo Phật, không ăn thịt, không uống rượu, mỗi tháng ăn chay 10 ngày và đọc kinh, lấy đó làm lệ thường. 


Hương này vốn không có chùa, lại ở nơi hẻo lánh, núi non sầm uất, có suối trong tuôn chảy, ông thấy mến cảnh, bèn dựng chùa làm nơi hương khói sớm hôm. Chùa được dựng từ tháng giêng đến tháng tư năm Bính Thân (1356) niên hiệu Thiệu Phong thì hoàn thành, đặt tượng Phật vào. Ông lại đặt tên chùa là Sùng Khánh, lại cúng vào chùa một viên (mẫu) ruộng để cấp cho người trụ trì”.

Đọc xong nội dung văn bia, anh này mang thước ra đo để khách du lịch Hà Giang 3 ngày 2 đêm thấy. Bia dựng trên mình rùa, hai mặt được bào nhẵn, dày 10,5cm, thân cao 90cm và bề ngang là 47cm. Trán bia là hình bán nguyệt, ở giữa chạm hình Phật ngồi trên toà sen, bên cạnh có 1 đệ tử đứng chắp tay trước ngực. 

Hai góc trên trán bia là hai hình rồng chầu, đầu rồng vươn cao về phía toà. Xung quanh thân bia được trang trí đường diềm hoa dây, phía dưới chân bia là hình sóng. Trên cột dọc ở đầu văn bản có khắc 7 chữ “Sùng Khánh tự bi minh tính tự”. Văn bản chữ Hán khắc ở mặt trước bia gồm bài tựa, bài minh và dòng lạc khoản, mặt sau bia chỉ có 2 dòng chữ Hán xen Nôm ghi việc cúng ruộng và nô tì cho chùa. 

Anh này cho biết: “Khi chưa được công nhận là bảo vật quốc gia thì dân bản chúng tôi vẫn coi đây là báu vật. Cứ đời này kể cho đời kia nghe nên cũng từ đó mà có hội, gọi là hội Lồng Tồng để nhớ ơn thần linh”.

Thứ Năm, 4 tháng 10, 2018

Hương vị đậm đà đặc trưng của cơm lam Bắc Mê

Nói đến cơm lam chắc hẳn mọi người ai cũng đều biết đó là món đặc sản truyền thống của cư dân vùng núi cao. Và Hà Giang cũng không ngoại lệ, đây cũng là món ăn truyền thống và là sản phẩm du lịch độc đáo mà người Hà Giang mang ra giới thiệu với khách du lịch Hà Giang bốn phương đặc biệt là cơm lam Bắc Mê nổi tiếng thơm ngon.


Kỹ thuật chế biến cơm lam cũng thật đơn giản và không tốn kém. Nguyên liệu là loại gạo nếp được trồng trên nương, ngâm kỹ trong nước. Dùng loại thân cây tre, trúc chặt từ trên núi mang về rồi chặt bỏ một đầu, gạo nếp được vo sạch, bỏ thêm chút muối, trộn đều, cho gạo vào ống tre rồi đổ nước vào ống sao cho vừa bằng với lớp gạo trên cùng, miệng ống được nút bằng lá chuối dong hoặc lá chuối tươi.

Đem những ống tre đó đốt trên bếp than hồng, vừa đốt vừa xoay tròn từ từ cho nhiệt tác dụng đều lên xung quanh vỏ ống. Khoảng một giờ sau, khi thấy mùi thơm của cơm tỏa ra thơm lừng là lúc cơm đã chín. 

Ngày trước cơm lam là món ăn ưu tiên cho những sản phụ, nhất là những phụ nữ trong thời kỳ nuôi con bú vì người dân cho rằng ăn cơm lam sẽ tránh được các chất kim loại như: sắt, nhôm, đồng do việc ta nấu cơm bằng nồi kim loại sẽ ảnh hưởng đến khả năng làm sữa cũng như chất lượng nguồn sữa của người mẹ.


Trước khi ăn cơm lam du khách du lịch Mù Cang Chải Tú Lệ dùng dao chẻ bỏ phần vỏ đã cháy đen bên ngoài và chỉ để lại một lớp vỏ mỏng bên trong để tiện khi ăn. Khi thưởng thức cơm lam, ta cảm nhận vị thơm quyện cùng với mùi lá chuối và ống nướng thật hấp dẫn. Cơm có thể ăn cùng với muối vừng hay các món cá suối nướng sẽ thơm và bùi hơn, nếu bạn đã thưởng thức món cơm lam một lần thì chắc hẳn không thể nào quên hương vị đậm đà mang nhiều hương vị đặc trưng của vùng cao. Cơm lam Bắc Mê là thứ đặc sản của núi rừng mà bất cứ ai khi đến đây cũng muốn mua về làm quà biếu những người thân yêu của mình.