Thứ Hai, 12 tháng 11, 2018

Thưởng ngoạn bức tranh thủy mặc độc đáo của danh thắng Tây Thiên

Danh thắng Tây Thiên nổi tiếng với dãy Tam Đảo hùng vĩ, nơi đây có ba ngọn núi cao là Phù Nghì (Phù Nghĩa), Thạch Bàn và Thiên Thị luôn xanh thẫm giữa biển mây trắng bồng bềnh, trông như ba hòn đảo của “nhà trời”. Giữa phong cảnh sơn kỳ thủy tú, Tây Thiên Vĩnh Phúc đã trở thành thánh địa linh thiêng, là cái nôi của Phật giáo Việt Nam và cũng là trung tâm tâm linh bậc nhất trên dải đất hình chữ S.

Theo “Đại Sử Ký” (Mahavamsa) của Tích Lan (Sri Lanka) cho biết: Khoảng năm 325 Trước Công Nguyên, sau khi kết tập kinh điển lần thứ 3, vua A Dục và Đại Lão Hoà thượng Moggaliputta-Tissa đã cử  9 đoàn “Như Lai sứ giả” đi hoằng dương Phật pháp. Tăng đoàn thứ 8 do Ngài Sona và Ngài Uttara đã đến nước ta, sau khi yết kiến vua Hùng tại Kinh đô Văn Lang (Việt Trì – Phú Thọ ngày nay), Tăng đoàn đến vùng rừng núi Tây Thiên – Tam Đảo xây chùa hoằng pháp.

Liên quan đến những ngôi chùa này, trong “Ngọc phả Hùng Vương” ghi lại rằng “Có lần vua Hùng Vương thứ 7 là Chiêu Vương lên núi Tam Đảo cầu Tiên thì nghiễm nhiên đã thấy có chùa thờ Phật”. Các tài liệu cổ cũng ghi nhận nơi đây có ba ngôi chùa mang tên Thiên Ân Cổ Tự, Phù Nghì Cổ Tự   và Tây Thiên Cổ Tự. Hiện nay, dấu tích nền cũ của các ngôi chùa đã được tìm thấy cùng nhiều hiện vật cổ khác.

Khu mộ cổ thờ Thiền sư


Còn theo “Giao Châu ký” của Lưu Hân Kỳ và “Thuỷ Kinh chú” của Lệ Đạo Nguyên (thế kỷ 4 SCN) cho biết: “thành Nê Lê ở phía Nam huyện Định An, cách sông bảy dặm. Tháp và giảng đường do vua A Dục dựng vẫn còn, những người đốn củi gọi là kim tượng…”. Trên núi Thạch Bàn đã tìm thấy dấu tích ngôi chùa cổ bằng đá có tên “Địa Ngục Tự” được khẳng định chính là “thành Nê-Lê” nói trên. Do ngôn ngữ tiếng Việt thời kỳ đó còn ít ỏi, chưa biết gọi “chùa” là “tự”, thấy chùa xây bằng đá giống thành quách nên gọi là “thành” (khác với nhà dân chủ yếu là mái tranh, vách đất). Còn từ “Naraka” cũng chưa thể dịch nghĩa là “địa ngục” nên gọi theo phiên âm là “Nê-Lê”. Đến khi người Hán sang cai trị, nhân dân ta mới dịch “Thành Nê-Lê” là “Địa Ngục Tự”.

Qua các sử liệu trên, chúng ta có thể kết luận: Phật giáo truyền vào nước ta dưới thời Hùng Vương và Tây Thiên chính là chiếc nôi của Phật giáo Việt Nam.

… đến trung tâm tâm linh ngày nay

Hiếm có nơi nào mà mật độ chùa chiền lại dày đặc trên một diện tích nhỏ như ở Tây Thiên. Nương theo các thung lũng và sườn núi có thể gặp chùa Thượng Tây Thiên trên núi Thạch Bàn, chùa Phù Nghì, chùa Thiên Ân, Thiền viện Trúc lâm Tây Thiên, Thiền viện Ni An Tâm, chùa Cả (cạnh đền Cả xã Tam Quan), chùa Ngò (cạnh đền Sơn Đình), chùa Chi Vố, chùa Suối Đùm, chùa Giao Sơn Tự (thuộc xã Bồ Lý), chùa Nhân Lý…

Trong hành trình lên dãy linh sơn Tam Đảo, chùa Thiên Ân là địa chỉ tâm linh đầu tiên du khách gặp. Chùa nằm trong khu vực đền Thỏng, ngay bên tay phải đường rẽ lên chùa Thượng Tây Thiên trên núi Thạch Bàn. Chùa có 2 gian thờ dọc, một khoảng sân nhỏ và khu hậu cần sắp lễ. Tên chùa Thiên Ân có lẽ để hoài tưởng về ngôi chùa cổ từ xa xưa đã lưu truyền trong dân gian và sử sách, nay không còn dấu tích. Cao hơn chút nữa là chùa Phù Nghì được xây dựng trên núi Phù Nghì, tại nơi tìm thấy dấu tích ngôi chùa “Phù Nghì cổ tự” có từ thời Trần. Năm 2010,  ngôi chùa cổ Phù Nghì được phục dựng với tên mới là “Tây Thiên Thăng Long cổ tự”. Trên đỉnh Phù Nghì thiêng liêng hôm nay, một Phật đài trang nghiêm được dựng lên, chính điện là cây tùng cổ thụ cao vời vợi, hiên ngang như một minh chứng cho sự cổ kính của vùng đất đã in dấu Phật pháp gần thiên niên kỉ.


Không thể không nhắc tới Tịnh Thất Tây Thiên ẩn mình kín đáo trong bạt rừng xanh dưới đỉnh Phù Nghì. Tịnh Thất là một không gian Phật giáo Kim Cương thừa linh thiêng,  là nơi tu trì của hơn tám mươi Ni sư Truyền thừa Drukpa từ nhiều năm nay.

Tịnh Thất khởi đầu là một thảo am nhỏ do cố Viện chủ Chùa Hương, Hòa thượng Thích Viên Thành tạo dựng hơn 20 năm trước để làm nơi tu học cho Ni giới đệ tử của mình. Từ thủa xa xưa đã có nhiều nữ hành giả xuất chúng từng ẩn cư nhập thất và hành trì miên mật tại vùng đất này. Chính các Ni sư nơi đây đã cống hiến hết mình để Phật giáo Tây Thiên được phát triển hưng thịnh như ngày nay.

Chùa Thượng Tây Thiên nằm trên núi Thạch Bàn (ở độ cao 530 mét so với mực nước biển) là ngôi chùa có vị trí cao nhất trong hệ thống các chùa Tây Thiên. Không tìm thấy tư liệu nào về niên đại xây dựng chùa, chỉ biết rằng chùa có trước đời Trần. Đến năm Kỉ Sửu (1733), Sư Tăng trụ trì Huệ Minh đã cho đập đá núi phục dựng lại chùa với bảo điện huy hoàng, gò chiêng trống, gác phượng, cửa Tam quan trang nghiêm. Trong chùa có tượng Đức Liên Hoa Sinh, vị Phật sinh ra từ bông hoa sen, Ngài là hóa hiện Thân, Khẩu, Ý Kim Cương Tam mật của đức Phật A-Di-Đà, Bồ Tát Quán Thế Âm và Phật Thích-Ca. Đây là pho tượng nguyên bản vô cùng quý giá về phương diện mỹ thuật và linh thiêng dưới góc độ tâm linh. Từ chùa Thượng Tây Thiên nhìn xuống, toàn cảnh thung lũng đẹp như một bức tranh thủy mặc.

Ngày nay, Tây Thiên đã trở thành một vùng đất quan trọng đối với dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử của Phật hoàng Trần Nhân Tông khi có tới hai thiền viện tọa lạc là Thiền viên Trúc Lâm Tây Thiên và Thiền viện Trúc Lâm An Tâm. Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên được xây dựng trên nền chùa cổ và là một trong ba thiền viện lớn nhất ở nước ta. Được xây dựng từ năm 2004, Thiền viện Trúc lâm Tây Thiên mang phong cách đặc trưng của ngôi chùa Việt Nam thế kỉ mới. Tổng thể kiến trúc bao gồm ba phần, tính từ bên dưới đường vào là : Tam quan, Chính điện và Nhà tổ.  Trong toà chính điện có ba bức tượng nêu biểu cho đường lối tu hành của Thiền viện là “Phật Tại Tâm”, “Tuệ giác” và “Tâm từ”. Ở vị trí trung tâm là tượng Phật Tổ ngày Thành đạo đang tọa thiền dưới gốc cây bồ đề. Các tượng Phật ở thiền viện đều được tạc bằng đá sa thạch, loại đá có độ bền đẹp mà người Việt, người Chăm và người Ai Cập cổ đại thường dùng để tạc tượng.

Linh thiêng tòa Đại Bảo Tháp Mandala Ngũ Trí

Đặc sắc nhất tại Tây Thiên ngày nay chính là tòa Đại Bảo Tháp Mandala nằm ngay dưới chân núi Thạch Bàn. Trong đạo Phật, đặc biệt là với Kim Cương thừa, Bảo Tháp có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đây là nơi chứa đựng Tâm Giác Ngộ của chư Phật, thể hiện ngũ đại thanh tịnh (đất, nước, gió, lửa, không khí). Với thiết kế ba phần (chân đế, mái vòm, chóp đỉnh) tượng trưng cho Thân – Khẩu – Ý Giác ngộ của mười phương chư Phật, nêu biểu cho Pháp thân của Phật, là bản tính đích thực của Tâm Giác ngộ Toàn tri.


Chính tay Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa - vị Thượng Sư từ bi được kính ngưỡng là hóa thân của Bồ tát Quán Thế Âm, cũng là vị Thầy đứng đầu dòng Truyền thừa Drukpa của thế giới – đã lựa chọn khu đất quy tụ nhiều linh khí nhất của đất trời Tây Thiên để xây Bảo Tháp. Ngài cũng chính là người đã thiết kế, gia trì và an trí những viên xá lợi linh thiêng vào tâm Bảo Tháp.

Hàng chục ngàn Bảo Tháp nhỏ chứa kinh Phật và vô số Pháp khí, tài bảo, công cụ, ngũ cốc đã được yểm trong lòng Bảo Tháp để đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Nói cách khác, Bảo Tháp chính là viên ngọc như ý linh thiêng giúp viên mãn hết thảy mọi thiện nguyện của chúng sinh.

Hàng năm, mỗi khi xuân về, lễ hội Tây Thiên lại tưng bừng khai mở, Phật tử và du khách tour du xuân 2019 thập phương hành hương về đây. Đến với Tây Thiên là đến với Tâm linh, đến với Phật pháp chân chính và thiên nhiên hùng vĩ. Khắp đất trời như tràn ngập sự gia trì của mười phương chư Phật, niềm an lạc lan tỏa khắp nơi nơi. Ai đã đặt chân đến Tây Thiên đều vấn vương, lưu luyến chẳng muốn về, bâng khuâng như thể để lại một phần tâm hồn ở đó!

Thứ Ba, 6 tháng 11, 2018

Nỗi lòng của người chèo đò trong khu sinh thái Tràng An

Ít ai biết được rằng phía sau 2.000 chiếc đò chở khách ở khu du lịch sinh thái Tràng An lại là một câu chuyện kể dài. Đó là tâm sự, là nỗi niềm của người chở đò nơi đây.

Khu di lịch sinh thái Tràng An nằm trong nằm trong quần thể danh lam thắng cảnh Tràng An, tỉnh Ninh Bình đã được UNECO vinh danh công nhận là di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới. Nhiều du kách khi đến với Tràng An choáng ngợp trước cảnh non sông nước biếc nơi đây, cả một vùng núi non hùng vĩ, uốn lượn quanh co, tạo nên chất thơ mộng rất trữ tình.

Đò đưa chúng tôi lần lượt ghé thăm các địa danh, hang động nổi tiếng tại Tràng An như: hang địa linh, hang tối, hang sáng, hang nấu rượu… Người chở đò tên Trọng (khoảng ngoài 40 tuổi) khuôn mặt rám nắng, khắc khổ, ông Trọng rất nhiệt tình chỉ dẫn để du khách du lịch Bái Đính Tràng An 1 ngày có thể hiểu hơn vùng đất mang vẻ đẹp kỳ vĩ này.


Ông Trọng chia sẻ: “Nhiều du khách khi đến đây chưa hiểu hết về Tràng An, cũng như con người nơi đây, do đó mỗi lần chở khách tôi lại giới thiệu về vùng đất nơi tôi đã sinh ra và lớn lên. Ở Tràng An này, từng hang động, ngọn núi tôi đều nắm trong lòng bàn tay bởi từ nhỏ tôi có đã theo ông cha vào đây đánh cá mưu sinh”.

Vừa nói vừa cười, ông Trọng lần lượt chỉ dẫn cho khách về tiểu sử của các hang động, địa danh mà đò đi qua.

Thế nhưng, khi hỏi về cuộc sống của của những người lái đò nơi đây, ông Trọng ngập ngừng rồi tâm sự: “Khoảng những năm 2001, ruộng của 2.000 hộ dân bị thu hồi để phục vụ cho việc quy hoạch làm khu du lịch sinh thái Tràng An, kể từ đó những người nông dân không còn ruộng, thay vào đó là nghề chở khách du lịch, 2.000 hộ dân ở đây mỗi hộ được cấp 1 chiếc đò để phục vụ chở du khách.

Theo ông Trọng, đây cũng là cơ hội tốt để quảng bá hình ảnh quê hương, để người dân có điều kiện mở mang kiến thức, giao lưu với nhiều du khách du lịch lễ hội đầu năm, trong đó có cả người nước ngoài.

“Chúng tôi là những người nông dân quanh năm với ruộng đồng nào biết đến thế giới bên ngoài là gì, từ khi Tràng An mở cửa đón khách du lịch, trình độ dân trí của người dân ở đây được nâng cao hẳn lên, còn kinh tế của những người chở đò như chúng tôi thì...”, ông Trọng bỏ lửng câu nói.


Nghề chở đò ở Tràng An khá vất vả, người lái phải như một nghệ sĩ thực thụ, bởi nhiều hang động có mô đá nhấp nhô trên đầu, có đoạn chỉ vừa lọt đúng một chiếc đò. Do đó, người lái đò phải làm sao lái thật chuẩn xác, vừa để lách qua “cửa ải”, vừa để du khách không bị đập đầu vào đá.

Công việc chở đò của những như ông có khi phải chèo liên tục 3h đồng hồ, nhưng mỗi chuyến như vậy những người lái đò chỉ được trả 200.000 đồng và không phải về đến bến là có khách mà phải chờ 1.999 chiếc đò khác chở khách đi rồi mới đến lượt mình.

Ông Trọng chia sẻ: “Đò có số thứ tự, ai đến lượt mới được chở khách, cô chú bảo 2.000 chiếc đò thì bao giờ mới tới lượt, vào mùa lễ hội trung bình mỗi ngày tôi chở được một chuyến, còn những ngày bình thường thì một tuần được một chuyến, tiền mỗi chuyến đò có đáng là bao, ai may mắn thì được khách thương tình cho thêm vài đồng”.

Với thu nhập không ổn định từ nghề chở đò cho khách du lịch, ông Trọng cho biết vào những hôm không chở đò cho khách, ông phải đi phụ hồ để có thêm thu nhập lo cho cuộc sống gia đình.

Trước kia người dân nơi đây ngoài việc cấy hái còn có thêm nghề đánh bắt tôm cá để bán, nhưng kể từ khi bị cấm đánh bắt tôm cá, nhiều người đã phải bỏ quê đi làm ăn xa.

“Tôm cá ở đây nhiều lắm, ngày trước cứ cấy hái xong là chúng tôi lại đánh bắt tôm cá, nên cuộc sống cũng tạm ổn.Từ khi bị cấm, nhiều người đã phải đi xa quê đi làm thuê, trông chờ vào việc chở đò cho khách thì được là bao”, ông trọng phân trần.

Chia tay ông Trọng - người lái đò thân thiện, chúng tôi trăn trở về câu chuyện phía sau 2.000 chiếc đò chở khách du lịch, ít ai biết được rằng đằng sau những chiếc đò đó lại là một câu chuyện kể dài, đó là tâm sự, nỗi niềm của người chở đò nơi Tràng An.


Trao đổi với chúng tôi, ông Hà Đức Kim, Chủ tịch xã Ninh Xuân (huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình) cho biết, nhiều năm về trước ruộng của người dân các xã Ninh Xuân, xã Trường Yên và xã Ninh Hải (huyện Hoa Lư) bị thu hồi để phục vụ cho việc quy hoạch làm khu du lịch sinh thái Tràng An, mỗi hộ gia đình sau đó được cấp 1 chiếc đò để phục vụ chở khách du lịch (trong đó xã Ninh Xuân có khoảng 600 chiếc đò).

Cũng theo ông Kim, những chính sách hỗ trợ cho người người dân hiện chưa có, chính quyền xã chỉ xác nhận về mặt hồ sơ giấy tờ, đảm bảo về mặt pháp luật. Đồng thời hướng dẫn bà con lái đò thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về việc chở khách du lịch tới tham quan.

“Về hỗ trợ tiền cho bà con hiện không có gì, phía doanh nghiệp vừa rồi họ đã tiếp tục rà soát lại những người lái đò thông qua độ tuổi, hình như sắp tới có chính sách mới. Chúng tôi qua những lần tiếp xúc cử tri ở huyện cũng đã có kiến nghị chỗ doanh nghiệp nên thành lập công đoàn để bảo vệ quyền hợp pháp chính đáng cho bà con”, ông Kim nói